Bảo Đức đánh máy
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mu A Mu Sa.
Chúng con nguyện xin mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh.
Bảo Thành kính chào tất cả các bạn ở trên kênh Youtube Thất Bảo Huyền Môn và trang Facebook!
Các bạn thân mến, Thất Bảo Huyền Môn là một Pháp môn Thiền Mật song tu lấy tâm an trú Tánh Thấy Biết trong hơi thở Chánh Niệm vào ra và trì mật chú Mu A Mu Sa để ngưỡng cầu ba ngôi Tam Bảo ban rải năng lượng Từ Bi xuống cho chúng ta trong giờ phút an trú vào Chánh Niệm hơi thở. Với niềm tin vững bền, không thối chuyển, lung lay vào ba ngôi Tam Bảo Phật − Pháp − Tăng chúng ta hiểu thấu được Phật là gì, là ai, là Đấng nào. Ngài là như mọi con người chúng ta đã tự Giác Ngộ, tự thoát khỏi Sanh − Tử cho nên chúng ta tin tưởng vào Bậc Thầy đã tự Giác, tự Ngộ và tin tưởng vào giáo pháp, con đường Ngài truyền dạy cho chúng ta. Đồng thời đặt niềm tin vào sự hòa hợp của Tăng thân, những người đã xuất gia đi theo Phật, Tam Bảo. Từ đó chúng ta tin sâu vào luật Nhân Quả mà Đức Phật đã dạy gồm Ác và Thiện. Chúng ta bỏ ác hành thiện để tâm thanh tịnh, để cuộc đời của chúng ta không còn tạo những ác nghiệp gây ra phiền não đau khổ cho chúng ta. Và năm giới cấm là những điều răn dạy chúng ta cần phải giữ, cần phải thực hành để tự bảo vệ, bảo hộ thân tâm của chúng ta. Với những điều như vậy chúng ta bắt đầu đi trên con đường Đạo để nhìn tâm cho rõ để chúng ta sàng lọc, gội rửa những phiền muộn, ai oán, đau buồn, tội lỗi, chấp trược, sai trái để chúng ta hành pháp thiện mà Đức Phật dạy cho chúng ta tích lũy phước báu ít nhất trong kiếp làm người này.
Hơi thở Chánh Niệm giúp cho ta nhìn rõ và mật chú Mu A Mu Sa giúp cho chúng ta tăng sức mạnh tự thân, tự lực để chúng ta dấn thân vào con đường cầu Đạo Giác Ngộ. Với hơi thở đi vào từ mũi các bạn đưa sâu xuống dưới bụng và trong Pháp môn này chúng ta cũng chú trọng đến 7 Luân Xa là những vùng đại huyệt của cơ thể con người. Để từ đó kích hoạt những năng lượng tự thể vốn có hòa vào với tha lực Phật điển để làm sao phát huy được diệu dụng của nó tăng sức mạnh tự thể, làm giải tỏa năng lượng bất tịnh tồn trữ gây ra bệnh hoạn. Giải phóng những năng lượng tiêu cực tồn đọng trong não, trong tâm của chúng ta giúp cho chúng ta an vui và hạnh phúc mỗi ngày. Khi bạn hít vào bằng mũi bạn phải thấy được hơi thở đi từ mũi đi vào và xuống dưới Luân Xa số 1 tại vùng đằng trước xương cùng của chúng ta. Luân Xa số 2 ở dưới rốn một đốt ngón tay rưỡi ở ngay vùng đại huyện ở Đan điền Khí hải. Luân Xa số 3 ở trên rốn một ngón tay tức là vùng bụng trên của chúng ta. Luân Xa thứ tư ở ngay vùng ngực giữa tiếp giáp với xương và phần mềm của bụng dưới. Luân Xa thứ năm là ngay vùng xương ngực tiếp giáp với vùng cổ, Luân Xa thứ sáu giữa hai con mắt và Luân Xa thứ 7 ở trên đảnh đầu của chúng ta. Chỉ cần dùng tâm ý của mình dẫn tha lực Phật điển xuống từng Luân Xa đi lên đảnh đầu trong một hơi thở và Mu A Mu Sa. Khi chúng ta niệm “Mu” thì chúng ta quán Luân Xa số 1 và số 2. Mỗi một âm quán 2 Luân Xa ngoại trừ âm cuối cùng ta chỉ quán chiếu một Luân Xa trên đảnh đầu Luân Xa số 7. Cứ như vậy ta sẽ thấy được năng lượng tràn đầy trong từng Luân Xa xoay chuyển giúp cho ta nhờ đó theo dõi tâm an trú trong hơi thở nhìn thấy được pháp nội quán Thân − Thọ Niệm Xứ và tìm về được sự an yên tự tại trong thân tâm của chúng ta trong từng giây phút.
Giờ đây mời các bạn đặt bàn tay phải là bàn tay tượng trưng cho Trí Tuệ vào lòng bàn tay trái tượng trưng cho Từ Bi. Chúng ta sẽ vận hành 7 biến vi diệu âm Mu A Mu Sa để quán chiếu đề mục hôm nay tức là “tu trong nghịch cảnh”.
Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh và khai mở 7 Luân Xa cho chúng con để chúng con có được Chánh Định mà tu trong ở trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hít vào bằng mũi, phình bụng. Thở từ từ, hóp bụng vào, quán chiếu Luân Xa, trì mật chú
Mu A Mu Sa (7 biến)
Mô Phật!
Các bạn thân mến, với đề mục quán chiếu hôm nay “tu trong nghịch cảnh”. Đã mang thân phận là kiếp con người hay chúng sanh trong các nẻo Luân Hồi ai ai cũng phải đương đầu với thật nhiều nghịch cảnh. Nghịch cảnh tới từ đâu? Nghịch cảnh tới từ những bất thiện nghiệp, những ác nghiệp mà chúng ta đã tạo ra từ muôn đời muôn kiếp tích lũy tới kiếp này. Năng lượng của ác nghiệp đó vẫn tạo thành một lực thật lớn để nó dắt, nó dẫn và nó lôi kéo ta sa vào những con đường ác và cứ thế chúng ta tiếp tục tạo nghiệp khó có thể thoát ra khỏi. Từ muôn đời con người thích mặc định điều đó như là một định số, một mệnh số, như là số mệnh của cuộc đời không thể thoát bởi số mệnh đó được đặt để và luôn luôn được quản lý bởi ông Trời. Làm gì thì làm phải đầu hàng ông trời thôi và như thế ai ai trong chúng ta khi sống ở đời khi có chuyện xảy ra ta không bao giờ tinh tấn để vượt qua mà chấp nhận đứng tại chỗ để chịu trận.
Phước thay! Phước thay! Đức Phật đã Giác Ngộ, Ngài đã nhìn thấy những điều như vậy hoàn toàn sai trái. Chẳng có ông Trời nào mặc định số phận cho chúng ta, chẳng có ông Trời nào lại đi đâm đầu vào quản lý tất cả mọi chúng sanh. Những chuyện của chúng sanh mà ông Trời chi phải bận rộn như con mọi, con ở lo cho chúng sanh như thế. Ngài nhìn rõ tất cả những gì gọi là định mệnh tạo tác và rồi ác nghiệp ta gây ra tạo thành những nghịch cảnh tới với cuộc đời đều do bất thiện nghiệp mà mỗi chúng sanh đã tạo từ vô lượng kiếp qua. Song hành với những nghịch cảnh chúng ta vẫn còn có những thuận bởi những phước báu cũng đồng hành trên những ác mà ta đã làm trong kiếp người. Các bạn thân mến, từ đó chúng ta thấy rằng chúng ta không cần phải đầu hàng số mệnh đâu. Và khi gặp nghịch cảnh thì vẫn còn thật nhiều chứ chẳng phải một tia hy vọng để vượt qua. Bởi vì Đức Phật là Đấng Giác Ngộ đã khai thị và dạy cho chúng ta điều đó. Dĩ nhiên trên cuộc đời này ai ai cũng có nhiều lầm lỗi, nhiều sai phạm nói rõ hơn là tạo ra tội. Và tội đó tới từ những ác nghiệp ta gây ra. Như vậy trong cuộc đời này những ác nghiệp đó tích lũy biến thành họa gây ra nghịch cảnh trong cuộc đời. Mỗi người mỗi cảnh, mỗi người mỗi nghiệp và nghịch cảnh tới với chúng ta nó đa dạng.
Chúng ta thử hỏi coi Đức Phật có gặp nghịch cảnh trong cuộc đời hay không? Có. Khi chỉ là thái tử thuở còn nhỏ Ngài đã gặp nghịch cảnh rồi bởi biết bao nhiêu thái tử ở trong cung anh em, bà con, họ hàng ai cũng muốn tranh giành ngôi thái tử tìm đủ mọi cách để xóa tên, xóa sổ Ngài ra khỏi danh sách được thừa kế. Đến khi Ngài nhìn thấy 4 điều khổ trong 4 thành, 4 hướng Ngài muốn khởi tâm đi tu. Từ lúc khởi tâm đó thì cũng nghịch cảnh bởi vì vua cha sợ con đi tu nên đã gả vợ cho khi còn tuổi rất là non trẻ. Và lòng phát ra thật là dũng mãnh muốn đi tìm con đường giải thoát cho chúng sanh Ngài đã tiếp tục gặp biết bao nhiêu nghịch cảnh như vợ, như con, như 4 bức thành đóng kín cửa quân canh hàng ngày, khó có bề thoát. Thế vậy mà Đức Phật thuở đó là một thái tử vẫn hướng đến con đường cầu Đạo Giải Thoát để vượt ra khỏi thành để đi tầm cầu Đạo pháp. Trên con đường đó vị thầy thứ nhất, vị thầy thứ hai Ngài cũng gặp biết bao nhiêu nghịch cảnh nhưng nghịch cảnh rõ ràng nhất vẫn là nhóm 5 anh em Kiều Trần Như là những người bạn đầu tiên tu theo khổ hạnh. Biết bao nhiêu nghịch cảnh, nghịch cảnh tới từ những chân lý mà Ngài được nghe, được nhìn nhưng chưa có đủ Trí Tuệ để thẩm định. Nên đã đi vào con đường khổ hạnh 7 năm trời, biết bao nhiêu là khổ ải, nghịch cảnh từ miếng cơm, từ sương gió, từ miếng ăn, từ miếng áo, tất cả mọi cảnh từ bên ngoài và bên trong toàn là nghịch. Nghịch đến mức mà thân xác tiều tụy tưởng như chết rồi cuối cùng Ngài mới lần mò thoát khỏi chỗ đó và được một chén cháo sữa của một cô bé chăn dê. Từ đó thấy thuận cảnh bắt đầu tiếp ứng trên biết bao nhiêu nghịch cảnh của cuộc đời Ngài đã Giác Ngộ sau 49 ngày tu tại gốc cây Bồ Đề.
Khi Ngài thành Phật rồi chúng ta lại hỏi Ngài có gặp nghịch cảnh hay không? Vẫn còn, vẫn còn. Biết bao nhiêu người của những tông phái khác như Bà La Môn Giáo, của những tôn giáo địa phương không ưa gì Đức Phật bởi Ngài là mặt trời Trí Tuệ soi sáng miền tăm tối của con người thời đó nên họ bị mất đi danh, lợi và quyền lực của họ. Từ đó họ đã tìm cách trù dập, vu oan giá họa, thậm chí tìm cách để giết chết Đức Phật. Ngài vẫn phải đương đầu với biết bao nhiêu nghịch cảnh từ bên ngoài, Ngài còn phải đương đầu với nghịch cảnh của người anh em họ là ông Đề Bà Đạt Đa theo sát Ngài hãm hại Ngài từ trong cung đình cho đến khi Ngài xuất gia. Thành Phật rồi mà vẫn còn gặp nghịch cảnh, người ta độn bụng để mà hàm oan Phật đã làm người ta mang thai. Người ta đã chôn xác chết ở gần chỗ Phật ở như một nghịch cảnh khủng khiếp nhất trong cuộc đời để vu oan Ngài đã giết người. Còn biết bao nhiêu thứ nữa, người ta thả voi ra để giết Phật, niềm tin lăn đá để giết Phật, người ta chửi Phật, người ta vu khống, người ta đòi bắt bớ Phật. Biết bao nhiêu nghịch cảnh nhưng Đức Phật từ là thái tử cho đến thành Phật cả một chuỗi dài của cuộc đời Ngài luôn luôn gặp mọi nghịch cảnh. Nhưng làm sao Ngài có thể thoát và vẫn tu? Bởi vì Ngài hiểu thấu được con đường Ngài đã đi, đang đi và sẽ đi. Từ đó Ngài không bao giờ thất thối dù nghịch cảnh thật là khủng khiếp xảy ra trong cuộc đời.
Lại dẫn chứng biết bao nhiêu những vị Tổ thời xưa cũng gặp nghịch cảnh dữ lắm, chúng ta thấy được điều đó. Như ông Vô Não một thời giết người thế mà khi xuất gia cũng còn nghịch cảnh tới với cuộc đời bị người ta đánh, người ta đập, người ta chửi, người ta đập cho đổ máu đầu cho tới chết. Vậy mà khi Ngài đã theo Phật Ngài không hề bỏ. Ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông Ca Diếp, tất cả các hàng đệ tử của Ngài đều luôn luôn phải gặp nghịch cảnh bị hàm oan, vu khống, đánh đập, xua đuổi, chửi mắng đủ hết. Và những vị Tổ hiện đại mà trong thời kỷ nguyên mới này chúng ta cũng thấy như Ngài Thiền Sư Hư Vân ở Trung Quốc, Ngài cũng bị bắt, Ngài cũng bị nhốt vào trong lao tù, bị đánh đập. Và rồi sống trong một kiếp người đày đọa trong lao tù trải qua những cuộc nội chiến của Trung Quốc Ngài vẫn tu, nghịch cảnh đó Ngài coi như một màn diễn trên sâu khấu. Và thực sự Ngài là một vị tu chân chính trong thời đại mới. Như Ngài Tuyên Hóa chúng ta cũng thấy trải qua biết bao nhiêu nghịch cảnh nhưng Ngài vẫn vững chãi trong cuộc đời. Đó là nói những vị như thế còn biết bao nhiêu vị Tổ đã trải qua những nghịch cảnh như thế trong cuộc đời nhưng các Ngài vẫn sẵn sàng tu. Có người trải qua nghịch cảnh của thịnh suy trong xã hội, có người lại trải qua nghịch cảnh thịnh suy trong thân xác. Ví dụ các Bậc Cao Tổ của Việt Nam mình, những vị Hòa Thượng lớn tuổi gặp biết bao nhiêu nghịch cảnh những vẫn vững vàng để tu. Ngay cả khi tuổi đã lớn vẫn còn gặp nghịch cảnh nơi thân bệnh bị liệt ngồi một chỗ, đi đứng phải nhờ hàng đệ tử và những người xung quanh cũng như các vị thị giả nâng đỡ. Đấy, nghịch cảnh vô cùng nhưng các Ngài vẫn nhất tâm tu an trụ và trụ trong thế gian này với thân bệnh như vậy nhưng tâm trong sáng như trăng rằm trung thu, nhưng tâm trong sáng như mặt trời không bao giờ bị những áng mây đen che phủ. Bởi thế các Ngài vẫn là sao mai dẫn đường cho người đi, mặt trời soi bước cho con đi vào cuộc đời.
Đối với phận người như chúng ta, Bảo Thành và các bạn nhất định phải từng trải qua biết bao nhiêu nghịch cảnh trong cuộc đời. Nghịch cảnh bởi vì công ăn việc làm không có thì giờ để đồng tu, nghịch cảnh bởi vì chúng ta muốn tu mà vợ hoặc chồng trong gia đình lại không tán thành. Chúng ta muốn tu mà cha mẹ lại không đồng ý, chúng ta tu mà bạn bè chê bai, chúng ta tu mà muôn người xung quanh cứ dòm ngó rồi chỉ trích làm cho chúng ta khó có thể an tâm. Nhiều, nhiều, nhiều lắm, lại có những người có thân bệnh nữa, muốn tu nhưng bởi vì thân bệnh khó quá. Rồi thì người muốn tu mà chưa gặp được thầy, chưa gặp đúng nơi đúng chỗ, chưa gặp đúng pháp, biết bao nhiêu nghịch cảnh. Bước vào con đường không phải là nghịch cảnh nó sẽ tới. Dù các bạn tu là Thiên Chúa Giáo, là Phật Giáo, Cao Đài Giáo, Hòa Hảo hay một tôn giáo nào thì các bạn luôn luôn phải đương đầu với nghịch cảnh bởi nghịch cảnh không loại trừ một tôn giáo nào. Vì sao? Nghịch cảnh không tới từ tôn giáo nó tới từ ác nghiệp mà mỗi người chúng ta tạo ra. Còn thuận cảnh tới từ phước báu bởi những thiện nghiệp ta đã tạo. Cho nên một đời người không hẳn rằng nghịch cảnh tới với ta nhiều và tới với người khác ít. Ít nhiều là do ác nghiệp của chúng ta đã tạo, nhiều nghịch cảnh ác nghiệp nhiều, nhiều thuận cảnh thiện nghiệp nhiều.
Chân lý Đức Phật đã khai thị tất cả những gì đang xảy ra trong cuộc đời không phải là số mệnh do ông Trời đặt để. Thuận hay nghịch, có phước báu hay có những tai họa, nghịch cảnh hay những thuận cảnh trong cuộc đời đều bởi vì ta tạo ác nghiệp hay thiện nghiệp. Và nếu như ta xả rác thì chỉ cần dọn dẹp rác rưởi thì nó sạch. Nếu chúng ta trồng hoa, trồng cây thì có trái để ăn, có hoa để thưởng lãm. Y như vậy, cuộc đời là như thế, ta làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ cuộc đời, làm chủ ác và làm chủ thiện. Phật đưa chúng ta tới một chân lý rõ ràng không lệ thuộc và đó là chân lý của sự thực. Từ đó chúng ta không còn làm nô lệ của đời sống tâm linh mà chúng ta đã được Phật khai thị để trở thành Phật như Ngài. Không có một Đấng giáo chủ nào tuyên bố một chân lý rằng để cho tất cả mọi chúng sanh từ những chúng sanh thật là sơ sài không có hình tướng tới những chúng sanh thông tuệ như loài người của chúng ta đều có bình đẳng với Ngài là ngôi vị Phật khi có thể thoát khỏi Sanh − Tử và liễu thông khỏi mọi chấp trược của cuộc đời. Chỉ có Đức Phật mà thôi, mới đưa chúng ta tới sự bình đẳng Tánh Trí còn không có một Đấng tối cao của một tôn giáo nào đưa chúng ta tới. Bởi các Đấng đó luôn đặt chúng ta ở dưới, ở dưới chỉ là thụ tạo của các Ngài. Các Ngài có quyền sinh ra ta và các Ngài có quyền đặt để ta vào nghịch cảnh, thuận cảnh, Địa Ngục hay Thiên Đàng, hoàn toàn nằm trong tay của các Đấng đó. Còn Phật lại đưa cho chúng ta một chìa khóa rằng minh định cuộc đời tới Niết Bàn hay Địa Ngục, nghịch cảnh hay thuận cảnh, phước báu hay tai họa nằm trong chìa khóa Thiện và Ác được đặt để trong tâm Phật của mỗi chúng ta.
Bạn đã có chìa khóa để đi vào cuộc đời chuyển hóa tất cả mọi nghịch cảnh để đi tới thuận cảnh rồi thì tu trong nghịch cảnh là một pháp tu kỳ diệu. Bởi nhìn thấy nghịch cảnh là nhìn thấy phước báu đang hiển lộ trước mặt. Nhìn thấy nghịch cảnh là nhìn thấy nghiệp ác ta đã tạo. Như kẻ mù không thấy rác cho nên có thể nằm xả vào trong rác rưởi để ngủ mê, ngủ trầm rồi ôm rác mà ngủ cả cuộc đời này tới đời sau, khổ hoài không hết. Như người sáng nhìn thấy rác, chỉ cần học cách dọn dẹp cho sạch thì tâm sạch, thân sạch, cả nhà đều sạch sẽ. Người xưa nói nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm. Chúng ta sạch sẽ, thân tâm sạch sẽ, rác rưởi của bất thiện nghiệp không còn thì nghịch cảnh đâu tới. Mà dù nghịch cảnh đó tới thì nhận ra chỗ đó nó còn có rác ta lại sắn tay áo lên tinh tấn lượm, rửa, lau chùi nó sẽ sạch ngay mà thôi. Chẳng phải rằng ông Trời cứ đổ rác rưởi xuống cho chúng ta, nhốt chúng ta vào ngục tối của sự nghịch đó để rồi ta phải chấp nhận cúi đầu đón lấy suốt cuộc đời. Phật dạy không có một điều gì ta phải chấp nhận hết, ta chỉ đón nhận để chuyển hóa chứ không bao giờ chấp nhận. Bởi những chuyện xảy ra đều do nhân duyên chúng ta tạo ra thì ta cũng kiến tạo được nhân duyên ngược lại để biến nó từ chiều hướng nghịch thành thuận, chiều hướng xấu thành tốt. Các bạn, chúng ta không chấp nhận, chúng ta đón nhận để chuyển hóa. Do đó nghịch cảnh tới với các bạn, tới với Bảo Thành tức là chúng ta phải sẵn sàng đón nhận bằng tâm chân thành nhận rõ tất cả những năng lượng tạo ra hoàn cảnh nghịch như vậy tới với ta do ác nghiệp của ta, đón nhận với tâm hoan hỷ. Làm sao để chuyển hóa nghịch cảnh này đây?
Các bạn thân mến, có những sự vi diệu quá bình thường mà chúng ta không bao giờ để ý. Các bạn cứ nhớ như vầy, trong Phật giáo nói rằng nghiệp lực tạo ra chúng ta khổ, nghiệp lực tức là nói tới ác nghiệp đó các bạn. Trong ác nghiệp tạo thành nghiệp lực ác đó nó dẫn ta đi luân hồi sanh tử trong sáu nẻo, tạo ra muôn bề khó khăn, nghịch cảnh cho chúng ta, tai họa dồn dập tới, trùng trùng duyên khởi đắm chìm trong vô lượng hà sa kiếp khó thoát nhưng đó cũng bởi do ta. Nếu ở trên đời ta hỏi nếu có một lực kéo chúng ta đi vào vùng đen tối nhất định phải có một lực để kéo chúng ta thoát ra khỏi vô minh đen tối đó. Vậy lực mà giúp chúng ta thoát khỏi vô minh đen tối để thắng được lực của vô minh, của bất thiện nghiệp, của ác nghiệp là lực gì? Là lực Từ Bi. Năng lượng Từ Bi, tha lực Từ Bi của Phật có một sức mạnh siêu thế giúp chúng ta thoát khỏi vùng sình lầy. Các bạn cứ tưởng tượng như vầy, cả một vùng sình lầy lớn như thế nếu các bạn lọt vào vùng sình lầy đó các bạn càng vùng vẫy nó càng chìm. Mà nhớ rằng khi các bạn đang chìm dần theo năm tháng, đã chết rồi ai có thể cứu được. Và các bạn cứ tưởng tượng cả một vùng sình lầy đó là ác nghiệp, là nghịch cảnh, là Địa Ngục, là tăm tối, là vô minh, là tội lỗi, nhiều như thế, đếm không hết, tràn đầy hết mọi hướng, khó có thể thoát được. Rồi chúng ta tưởng tượng thử coi ở trong đống sình lầy của tội lỗi đó làm sao thoát đây? Và các bạn cứ tưởng rằng phải ngang bằng như vậy tức là 100 cái tội thì phải có 100 cái thiện. Hoặc là vũng sình lầy rộng 10 mẫu như thế thì phải có một chỗ thiện nghiệp cũng phải 10 mẫu mới có thể san bằng, không phải như vậy. Các bạn nghĩ thử coi, bây giờ bạn đang nằm gọn ở trong đống sình lầy đó, chỉ một sợi dây nhỏ bằng ngón tay thôi các bạn. Một sợi dây nhỏ bằng ngón tay quăng xuống mà các bạn bám vào thì người ta có thể kéo bạn ra khỏi đống sình lầy, tại sao? Bởi sợi dây đó đủ mạnh để kéo các bạn ra nếu các bạn bám chặt vào nó, nương theo nó và rồi chúng ta sẽ được kéo khỏi vũng sình lầy.
Sợi dây mong manh như hơi thở Chánh Niệm nhưng có sức thần thông siêu thế. Năng lượng Từ Bi của Phật, tha lực Phật điển mong manh như ánh sáng của mặt trời nhưng chỗ nào cũng có thể lan tỏa tới để kéo các bạn thoát khỏi vũng sình lầy của tội lỗi, của nghịch cảnh. Hiểu thấu được chân lý này các bạn sẽ vững tâm vô cùng. Còn nếu như nằm trong đồng sình lầy kia người ta quăng xuống một sợi dây bằng ngón tay mà các bạn cứ chần chừ “ôi, không biết sợi dây này có đủ mạnh để kéo ta thoát hay không hay khi bám vào nó đứt giữa đường lại chìm xuống. Thôi bỏ luôn chẳng cần phải bám víu vào để làm chi nữa”. Các bạn, các bạn có bám vào đi nữa thì các bạn cũng phải tự nhoài, tự bơi, tự bò nương theo sợi dây mà đi. Nếu các bạn không nương theo sợi dây đó thì có kéo cũng chẳng thể vào được, cứu được thân còn tâm của bạn vẫn lặn ngụp ở trong đống sình đó mà thôi. Hơi thở Chánh Niệm là một sợi dây mỏng mong manh, thật nhẹ. Nhẹ và mỏng đến mức không ai có thể nhìn thấy được nó nhưng nó có sức mạnh siêu thế kéo ta ra khỏi tất cả vũng sình lầy u tối của nghiệp chướng ta đã tạo. Và tha lực Phật điển vi diệu tới mức không ai có thể nhìn thấy chỉ có thể cảm ứng được mà thôi. Hơi thở ta còn thở ra thở vào, thổi vào tay còn thấy hơi ra hơi vào khi sờ vào mũi vào miệng. Nhưng tha lực Phật điển mũi miệng không thể thở ra thấy mà chỉ có tâm của chúng ta mới có thể cảm ứng được qua Thân Thọ khi tha lực Phật điển tác động vào mà thôi. Nó mỏng như vậy nhưng nó có sức mạnh siêu thế giúp các bạn bơi qua, trượt lên để bò ra khỏi đống sình lầy tội lỗi vô lượng kiếp tạo ra muôn trùng nghịch cảnh đã, đang, sẽ tới với các bạn.
Các bạn thân mến, tu trong nghịch cảnh phải hiểu được chân lý nghịch cảnh nó tới từ đâu. Nó tới từ chính ta, và rồi sao thoát được? Ta bám vào sợi dây của hơi thở Chánh Niệm, ta bám vào sợi dây của tha lực Phật điển để chúng ta bò, bò và trường ra khỏi vũng sình lầy của cuộc đời, của nghịch cảnh. Thấy được điều đó ta mới thấy rằng sự tự lực phối hợp với tha lực. Sợi dây quăng xuống cuộc đời đang đắm chìm trong vũng sình là tha lực. Nhưng tự lực ta phải bám vào và ta phải tự lực bò ra, choai mình để thoát khỏi điều đó. Như vậy các bạn có thấu được chân lý của tự lực và tha lực phối hợp hài hòa với nhau như hai chiều song song không thuận không nghịch, nương nhau mà thoát. Điều đó mới thấy được kỳ diệu siêu mầu của tha lực Phật điển khi phối hợp với tự lực cầu Đạo Giác Ngộ của mỗi chúng ta. Mỗi một nghịch cảnh tới với các bạn, các bạn hiểu thấu được chân lý ngay chỗ này và tu hành hơi thở Mu A Mu Sa đón nhận tha lực Phật điển của mười phương Chư Phật ban rải xuống trong tâm khảm của các bạn. Thì vũng sình lầy của nghịch cảnh, của tội lỗi, của đau khổ, của đọa đày, của tai họa có lớn tới đâu chỉ trong một hơi thở Chánh Niệm Mu A Mu Sa tha lực Phật điển sẽ thắp sáng Đuốc Tuệ và muôn trùng hy vọng thực sự sẽ kéo các bạn thoát ra khỏi đêm tối đó.
Phật đã thoát khỏi để chứng đắc, nghịch cảnh từ trong gia đình, trong cung đình, trong chốn tu, trong sự tu khổ hạnh, nghịch cảnh cả cuộc đời khi đã thành Phật, Ngài vẫn tịch tĩnh, các Bậc Tổ cũng thế. Ngay Bảo Thành cũng đã từng trải qua biết bao nhiêu nghịch cảnh trong cuộc đời, nghịch cảnh khủng khiếp đến mức mà nhiều lúc muốn bỏ cuộc không còn tu nữa. Nhưng trong tâm vẫn bám vào sợi dây của tha lực Phật điển và hơi thở Chánh Niệm cho đến ngày hôm nay vẫn còn thường trú tại ngôi chùa Xá Lợi đây. Biết bao nhiêu nghịch cảnh vẫn dồn dập, dồn dập đổ tới Bảo Thành nhưng bởi vì Bảo Thành hiểu rõ được lời của Phật dạy, của Tổ khai thị. Và vẫn thấy trong mình có sức mạnh siêu mầu từ hơi thở Chánh Niệm và có một nguồn tha lực siêu thế của Phật từ Phật điển ban rải xuống hàng ngày, hàng đêm. Cho nên muôn trùng thử thách và nghịch cảnh tới Bảo Thành vẫn mỉm cười, vẫn nhẹ nhàng, vẫn tươi tắn. Những ai tiếp cận với Bảo Thành đều thấy rằng hằng hà sa những nghịch cảnh đã tới. Không nói xa tới miền quá khứ mà các bạn không biết mà nói hiện tại trong ngôi chùa Xá Lợi từ khi được lập địa thành Phật nông trại biến thành ngôi chùa biết bao nhiêu nghịch cảnh lui tới liên tục. Nhưng Bảo Thành vẫn vững tâm trực diện với nghịch cảnh đó, bám vào hơi thở Chánh Niệm tha lực Phật điển Mu A Mu Sa và cứ từ từ bò ra thoát khỏi những nghịch cảnh phải đương đầu hàng ngày. Để rồi trên môi miệng vẫn cười, trên khuôn mặt vẫn tươi, trên từng tạo tác vẫn tự tại. Đó chính là cuộc đời của Bảo Thành và các bạn cũng thế thôi.
Bây giờ các bạn đặt bàn tay phải là Trí Tuệ vào lòng bàn tay trái là Từ Bi để chúng ta vận hành 7 biến vi diệu âm Mu A Mu Sa.
Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh và khai mở 7 Luân Xa cho chúng con để tất cả chúng con tinh tấn tu trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời. Hít vào bằng mũi, phình bụng. Thở từ từ, hóp bụng vào, quán chiếu Luân Xa, trì mật chú
Mu A Mu Sa (7 biến)
Mô Phật! Các bạn, chúng ta vừa đón nhận được thật nhiều tha lực Phật điển của mười phương Chư Phật ban rải xuống cho chúng ta tác động vào từng Luân Xa, khai mở năng lượng dẫn lên trên đảnh đầu. Phối hợp với năng lượng đó tự lực cầu Đạo Giác Ngộ của chúng ta sẽ vững chãi như Thái Sơn, thong dong tự tại như mây trắng ở trên trời. Chẳng có gì phải sợ, lòng trong trắng, pháp thiện hiện hữu, với tâm thiện như vậy chúng ta quán chiếu lòng sẽ khởi được hỷ lạc. Thiền duyệt là chúng ta nếm được hương vị của sự an lạc khi cảm ứng được tha lực Phật điển tác động vào trong thân tâm của chúng ta. Mỗi một nơi chúng ta ở, mỗi một quốc độ chúng ta đang hiện hữu, mỗi một hoàn cảnh chúng ta đang đương đầu trong gia đình, xã hội, công sở làm việc hay những nơi thờ tự tôn giáo, nhóm này, nhóm kia con người khi tương tác luôn luôn có những cái nghịch và cái thuận. Nếu chúng ta buông xuôi và đầu hàng thì tất cả những nghịch cảnh đó sẽ tạo thêm nghiệp, thêm phiền não, đau khổ để y như chúng ta tròng thêm một tảng đá lớn vào cổ khi nằm giữa vũng sình. Nó sẽ chìm nhanh hơn và ngộp thở chết mất thôi. Còn nếu chúng ta hiểu rằng tất cả những phiền não, những điều nghịch cảnh đang tới đó đều do nghiệp của ta tạo ra thì chẳng khác gì ta đã gỡ từng tảng đá, từng gánh nặng đang đè chúng ta xuống để chúng ta được thoát ra. Và rồi thấy được rằng pháp thiện Chánh Niệm hơi thở tha lực Phật điển là sợi dây, hãy bám vào. Trên đời này không có gì tủi hẹn khi đang sình lầy ở đó trước mặt, lặn ngụp khó thoát mà có được sự giúp đỡ quăng dây xuống. Chúng ta không có chi phải mắc cỡ, không có chi phải hổ thẹn. Hãy bám chặt vào đó, đặt niềm tin để thoát ra khỏi vũng sình lầy rồi từ đó chúng ta có thể tự lực mà đi.
Hơi thở Chánh Niệm, tha lực Phật điển là phương tiện diệu dụng mà Đức Phật gửi tới để chúng ta thoát ra. Còn thoát hay không cần có sự tự lực của Trí Tuệ phân biệt rõ ràng của mỗi người để chúng ta phát tâm tinh tấn mà tự lực thoát ra. Nhất định từ nay khi nghe được điều này các bạn chiêm nghiệm cho rõ, hiểu cho thấu và hành cho thông thì nhất định mọi nghịch cảnh tới trong cuộc đời sẽ tạo cho các bạn cơ hội một lần nữa được gỡ ra những tảng đá lớn của ác nghiệp nhiều đời mà các bạn đã tạo ra. Khi làm được điều đó môi miệng của các bạn sẽ nở nụ cười thật là tươi. Trên gương mặt của các bạn thật là sáng, tạo tác của các bạn thật là an thái nhẹ nhàng. Đời đâu cần gì nữa khi chúng ta hạnh phúc, đời có cần kiếm gì nữa không khi chúng ta an yên. Tất cả vật chất thế gian này là để phục vụ cho đời sống ngắn ngủi trong một hơi thở của con người để ta được tự tại, thong dong, an yên và hạnh phúc thì vật chất thế gian đến với chúng ta chỉ là điều dĩ nhiên bởi đó là phước báu của tâm tịch tĩnh trong pháp thiện. Còn của cải, vật chất thế gian từ bỏ mà chạy trốn chính là những nghịch cảnh ta tạo ra bởi vì ác nghiệp trong đời sống gian ác, tội lỗi, Tà Kiến, Tà Pháp. Thấy rõ ta buông Tà theo Chánh, bỏ ác theo thiện, lời Phật dạy đơn giản có thế nay chỉ cần hành động mà thôi. Chúng ta thường hay coi phim hành động và ai cũng thích coi phim hành động vậy thì ta hãy trở thành một người hành động tức là hành pháp của Phật đi. Đừng nghe giảng, đừng nghe xong vỗ tay khen rồi không bao giờ hành. Hãy khởi thân đứng dậy và tự lực hướng tới bờ Giác Ngộ để thoát ra khỏi vũng sình lầy của cuộc đời. Pháp Phật hiện hữu trong tâm, Phật đã tới, tha lực Phật điển đã cảm ứng được, hãy đứng dậy để thoát khỏi mọi nghịch cảnh trong cuộc đời nha các bạn. Mỗi một nghịch cảnh tới là một tảng đá hiểu thấu sẽ gỡ ra được để được nhẹ nhàng thân tâm mà thôi.
Hãy đặt tay phải một lần nữa vào lòng bàn tay trái để 7 biến vi diệu âm Mu A Mu Sa chúng ta cùng hành với nhau để quán chiếu đề mục hôm nay cho thấu suốt tu trong nghịch cảnh.
Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh và gia trì Phật lực giúp chúng con khai mở 7 Luân Xa để chúng con tinh tấn tu trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời. Hít vào bằng mũi, phình bụng. Thở từ từ, hóp bụng vào, quán chiếu Luân Xa, trì mật chú
Mu A Mu Sa (7 biến)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Mu A Mu Sa.
Chúng con hồi hướng công đức tới muôn loài chúng sanh đều tiếp tha lực Phật điển đại Từ đại Bi khai mở tất cả các Luân Xa và luôn tinh tấn tu học trong mọi nghịch cảnh của cuộc đời.
Hồi hướng tới các nguyên thủ các quốc gia trên thế giới dù nghịch cảnh như thế nào cũng sẵn lòng Từ Bi ngồi xuống thành lập được những chính sách giữ được nền hòa bình cho thế giới, chấm dứt chiến tranh. Hồi hướng cho các nhà khoa học ngành y, ngành dược chế tạo ra vắt xin và thuốc trị bệnh đại dịch. Cầu nguyện cho các bác sĩ, các y tá, các nhân viên y tế, nhân viên cứu trợ trên toàn thế giới chữa lành tất cả những bệnh nhân. Hồi hướng cho tất cả những ai đang đau khổ đặc biệt nơi quê hương quốc tổ Việt Nam của chúng con được an yên tự tại tu Phật Pháp nhiệm mầu và được hạnh phúc, bình an. Hồi hướng đến các vong linh tử vong được siêu sanh miền Lạc Tịnh.
Con nguyện xin Chư Phật mười phương Từ Bi chứng minh.