Bảo Đăng đánh máy
Mô Phật! Bảo Thành kính chào quý Thầy, quý Sư Cô, các bạn đồng tu.
Mời các bạn đồng quy ngưỡng về ba ngôi Tam Bảo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Chúng con nguyện mười phương chư Phật, ban rải năng lượng tình thương xuống cho mọi loài chúng sanh và gia trì cho hàng đệ tử chúng con tinh tấn miên mật hành trì mật thiền chánh pháp, để lan tỏa tình yêu thương, thắp sáng đuốc tuệ, sống đời tỉnh giác, thể nhập vào tâm tánh thiện lành, quán chiếu thấy rõ các pháp là Vô Thường, là Khổ, là Vô Ngã. Chúng con cũng đồng nguyện cho Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ, những người thân đã quá vãng được siêu sanh tịnh độ. Nguyện cho ông bà cha mẹ đệ tử chúng con tăng long phước thọ, bệnh tật tiêu trừ, phiền não đoạn diệt, tinh tấn tu học, tin sâu vào nhân quả. Nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Xin chư Phật Từ Bi chứng minh!
Mời các bạn đặt tay phải vào lòng bàn tay trái, chúng ta hãy cùng nhau ngồi xuống trong tư thế phù hợp với cơ thể, giữ lưng đầu cho ngay thẳng, buông thư, buông lõng nhẹ nhàng. Trở về với hơi thở của chánh niệm, hít bằng phình bụng ta biết hít vào phình bụng ghi nhận rõ ràng, thở ra hóp bụng ta biết ta thở ra hóp bụng tổng trì mật ngôn, ghi nhận từng âm thanh. Trong mật thiền hơi thở chánh niệm vào ra làm gốc để trụ tâm, từ đó quán chiếu tâm Từ Bi qua mật ngôn vi diệu Mu A Mu Sa, quán chiếu Trí Tuệ qua mật ngôn NamMô TaMô TaMô ĐaRaHoang, quán chiếu tâm Tỉnh Giác qua mật ngôn Ma Sa Ốp Uê và quán chiếu tâm tánh Thiện Lành qua mật ngôn Sa Bi Mô U. Chánh niệm hơi thở quán chiếu qua bốn mặt ngôn, quán chiếu Từ bi – Trí tuệ – Tỉnh giác – Thiện lành sẽ đưa chúng ta gần gũi hơn với chư Phật – Bồ Tát, tiếp hiện được năng lượng vi diệu, tha lực, lan tỏa và hồi hướng cho nhau, chúng ta hãy bắt đầu.
Hít vào bằng mũi đưa xuống bụng phình ra, thở từ từ hóp bụng vào, quán chiếu thân tâm, tổng trì mật ngôn, tiếp hiện năng lượng, lan tỏa đến muôn nơi.
Mu A Mu Sa – NamMô TaMô TaMô ĐaRaHoang – Ma Sa Ốp Uê – Sa Bi Mô U (7 Biến)
Mô Phật! Các bạn đồng tu, thật là hạnh phúc vì mỗi một ngày trong sự tươi vui, tiếp hiện, đón nhận năng lượng từ bi từ chư Phật qua hơi thở chánh niệm và tổng trì các mật ngôn vi diệu. Cuộc đời của Bảo Thành và cuộc đời của các bạn như sa mạc khô cằn nứt nẻ, lại được tưới tẩm mưa pháp vi diệu làm cho tươi mát cuộc sống. Bao nhiêu những vết hằn trong trái tim, bao nhiêu những đau khổ trong tâm, bao nhiêu những thương tích trong trí nhớ đều được tưới tẩm bởi năng lượng vi diệu qua các mật ngôn, quán chiếu tâm Từ bi, tâm Trí tuệ, tâm Tỉnh giác, tâm Thiện lành qua hơi thở chánh niệm mà được chữa lành từ từ. Để đời của các bạn và cuộc sống của Bảo Thành mỗi ngày khỏe hơn, tươi hơn, đẹp hơn, vui hơn.
Chúng ta cùng nhau vươn lên trên những đổ nát của cuộc đời, vững chãi trong những đổ tàn, vượt qua những tang thương. Chẳng để cho những áng mây đen của những lầm chấp che phủ, lầm đường lạc lối nữa. Ta đã về đúng đường, con đường giáo pháp vi diệu của Phật dạy, con đường của chánh niệm hơi thở, con đường của quán chiếu tâm Từ bi – Trí tuệ – Tỉnh giác – Thiện lành. Cứ như vậy mỗi ngày các bạn cùng với Bảo Thành lại ngồi xuống trên tận hư không pháp giới, không gian mạng vô tận của căn nhà thân thương, căn Thất Bảo Huyền Môn, YouTube, Facebook và phòng Zoom. Hữu xạ tự nhiên hương, rất nhỏ rất bé nhưng nhất định chánh pháp sẽ được lan tỏa, khi lòng của chúng ta thấm nhập vào với pháp Phật nhiệm màu từ bi. Để biết bao nhiêu những khối sầu bi trong cuộc đời, chẳng còn là gánh nặng đè trên vai làm ta đau khổ nữa, gánh nặng sầu bi là có thật.
Là con người mà, ai không có cảm xúc, biết bao nhiêu những cảm xúc ta có được trong đời này, những cảm xúc vui, hạnh phúc, an lạc trộn lẫn với cảm xúc đau khổ, phiền não, bất an. Chúng sanh hữu tình chẳng phải vô tình, sỏi đá còn có cảm giác, cây cỏ còn có cảm xúc, huống chi con người của chúng ta. Người Việt Nam rất giàu tình cảm, đặc biệt nhất của người Việt Nam nói riêng và toàn thể muôn loài nói chung đều có tình cảm rất sâu sắc đối với nhau, đối với đồng loại, đối với thân bằng quyến thuộc, đối với bà con. Tình cảm nặng nhất, sâu nhất, đậm nét nhất, vĩ đại nhất vẫn là tình cảm của vợ đối với chồng, của mẹ đối với con, của chồng đối với vợ, của cha đối với con. Bởi vì khi hai chữ gia đình được nhắc tới, ai trong chúng ta cũng phải nghĩ tới ngay người cha, người mẹ, người con, người vợ, người chồng. Đó là mối quan hệ gần gũi mật thiết, sâu sắc, gắn bó đến muôn đời.
Trong tình cảm giữa người và người nếu chúng ta không nhìn cho rõ theo chân lý của nhà Phật, thì chúng ta sẽ nặng phần sầu bi ai oán, đau khổ triền miên, muôn đời khó thoát. Nhưng nếu học Phật mà hiểu được thì mang tình cảm riêng tư giữa vợ chồng, con cái, giữa cha, giữa mẹ, giữa con thăng hoa theo luật nhân quả hiểu thấu, biết rõ được nhân duyên. Thì nhất định tình cảm, tình yêu kia trong sự nhớ nhung chồng vợ, con cái hoặc cha mẹ chẳng còn là gánh nặng sầu bi, mà là đóa hoa thơm, đóa hoa sen, đóa hoa của tâm từ bi vô tận. Như tâm của Mẹ Hiền Quan Thế Âm, tâm của người Cha vĩ đại Đức Bổn Sư Thích Ca, tâm của hằng hà Bồ Tát, thánh hiền. Gánh nặng sầu bi dù sao đi nữa vẫn luôn luôn canh cánh ở trong lòng. Có những người vợ sầu bi muôn đời vì chồng, biết bao nhiêu những hoàn cảnh nào là chồng đánh đập vợ, chửi bới vợ, say xỉn, rượu chè bê tha, ăn chơi trác táng, bỏ vợ cô lẽ, bỏ con mồ côi lạnh lùng, làm cho người vợ phải sầu bi, phải gánh nặng để ai oán, để oán trách, để đau khổ. Ngược lại cũng có cả những người vợ làm cho chồng như thế hoặc là cha bị con, mẹ bị con hoặc con vì nhớ thương cha mẹ mà sầu lắng trong đầu mãi mãi.
Việt Nam chúng ta từ Bắc cho tới Nam có biết bao nhiêu những cảnh thiên nhiên, một tạo tác vô giá mà người Việt đã mượn đó để nói lên tâm nguyện của người vợ nhớ về chồng, nặng gánh sầu bi hay nặng gánh yêu thương, chờ mãi chờ mãi, chờ chồng mà hóa đá. Trong dân gian đã có ca dao, đã có những tác phẩm âm nhạc nói về người vợ chờ chồng hóa đá như Hòn Vọng Phu. Cứ tưởng như ở Nha Trang Đèo Cả mới có Hòn Vọng Phu, không, Bình Định cũng có, Thanh Hóa cũng có, Lạng Sơn cũng có, từ Nam chí Bắc tất cả những dãy núi trải dài đó, không hiểu sao mà có những hình thù của những tượng đá giống như người vợ cùng con chờ chồng. Có lẽ người Việt trải dài theo lịch sử chiến tranh khá nhiều, những người cha, những người chồng trẻ đã phải ra chiến trường để bảo vệ đất nước, làm cho người vợ, người con chờ mong ngày đêm. Nỗi nhớ nhung đó, sầu bi đó, gánh nặng sầu bi đó, đã làm cho tâm của người vợ và làm cho cả cuộc đời của người vợ đứng chờ kia, thân xác kia hóa thành đá – Hòn Vọng Phu.
Chắc chắn dù trẻ hay lớn tuổi các bạn cũng nghe qua bài hát Hòn Vọng Phu, có câu nghe hay, Bảo Thành nhớ đây là Hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn, Bảo Thành chưa tới nhưng có câu thơ hay. Ở Đèo Cả, ở Phú Yên, Nha Trang thì Bảo Thành nhìn thấy rồi, nhưng ở Bình Định, các nơi khác chưa có, nhưng theo sử sách thì Việt Nam mình trải dài trên các ngọn núi đều có những tảng đá như người vợ chờ chồng gọi là Hòn Vọng Phu. Ở Lạng Sơn Hòn Vọng Phu người dân ở đó đã đặt lên hai câu thật hay và có lẽ là hầu hết các bạn từng nghe qua:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Nàng Tô Thị bồng con chờ chồng hóa đá gọi là Hòn Vọng Phu. Hai câu này thân thương. Buồn, nhớ, trông ngóng, sầu bi đợi chồng, cùng với con hóa thành đá, gánh nặng sầu bi thương nhớ người chồng. Đất nước ta chiến tranh quá nhiều, trong bao nhiêu ngàn năm lịch sử đều có những chiến tranh, đều có sự chết chóc và biết bao nhiêu người chồng, người cha đã phải hi sinh ở chiến trận bảo vệ non sông. Để cho người vợ, người mẹ cùng con hóa đá mà chờ chồng, chờ cha. Đó là khối sầu của con người, sầu đến mức, thương đến mức hóa thành đá.
Lại trở về Hà Tiên ở chùa Hang, Bảo Thành đợt vừa qua có đi hành hương dưới đó. Ở dưới chùa Hang Hà Tiên có Hòn Phụ Tử, đây cũng là một huyền thoại nghe rất hay. Hòn Phụ Tử – hồi đó có một người cha, vùng ấy có một con quái thú ở biển bắt hại dân chúng vùng biển. Có một người cha thấy mình cần phải hi sinh để hạ gục con quái thú này, không thì nguy hại đến bà con. Cho nên người cha này đó các bạn, chỉ có một người con thôi và người cha đã suy nghĩ âm thầm không còn cách nào giết được con quái thú, quái thú quá mạnh, nên bôi thuốc độc vào toàn thân rồi canh đúng giờ quái thú ở dưới biển nó lên nhử mồi. Đúng dịp quái thú ngoi lên người cha đã ở đó, quái thú thấy con người sẵn trên miệng bay vào ăn liền, khi cắn vào người cha thuốc độc đã tẩm, thấm vào quái thú liền bị chết ngay.
Dân làng và người con đi tìm người cha, thì người con thấy được người cha cái xác còn đó, thương cha nhào tới ôm đâu ngờ xác của cha còn thuốc độc, người con cũng chết. Rồi người cha và người con đó đã hóa đá thành Hòn Phụ Tử tại Hà Tiên, chùa Hang. Đây nói đến tình thương nặng lòng với dân chúng hy sinh đời người, cũng như người con cũng vì tình thương cha, sầu bi ai oán khi mất cha, xác cha nằm đó nhào vào ôm trúng độc chết ngay. Những câu chuyện Bảo Thành lược qua để thấy rằng tình cảm mà nhà Phật gọi là ái nhiễm, ái tình, ái dục rất nặng, rất lớn, là con người không thể tránh được. Nhưng nếu cứ để những chuyện như vậy thì nhất định cuộc đời gánh nặng sầu bi sẽ đè, ta muôn đời sầu, đời đời sầu, vô lượng kiếp sầu.
Có một bà mẹ con chết, chồng chết, nhà chết, bà thương, bà nhớ, bà khóc đến mù đôi mắt. Đến khi nghe có Đức Phật đâu đó là bậc đại giác có thể giải được sầu bi, đau đớn trong lòng, bà chống gậy mò tới để tìm Phật. Nghe người ta nói Phật ngồi ở đó, mà bà tới đại chúng ngồi đông, các đệ tử của Phật ngồi đầy, tín chúng đang nghe. Bà nghe được là của Phật nhưng mắt mù không thể nhìn thấy Phật, quờ quạng gặp ai cũng sờ và hỏi có phải Phật không? Ai cũng trả lời không, nhưng bà không tin, bà nói rằng “Tôi nghe được Phật ở đây, đúng, các vị đúng là Phật, tôi biết chắc như thế” .
Cho tới khi có một đệ tử của Phật mới dắt tới gần Phật, bà chạm vào Phật, một cảm giác thoát hồn tỉnh giấc, mắt mù đã sáng, mắt tâm đó các bạn. Bà đó mới phân biệt được chạm vào những người khác và chạm vào Phật hoàn toàn khác. Sầu bi nhớ chồng, gánh nặng sầu bi nhớ con làm cho đôi mắt khóc từng đêm, từng ngày bị mù lòa. Nhưng dù sao đi nữa có tâm tầm Phật, chạm vào được Phật thấy khác lạ vô cùng.
Các bạn, bà nếu không một lần chạm vào Phật thì chẳng thể phân biệt được sự chạm vào những người khác, cho nên đụng đâu cũng cho là Phật, là thánh. Đôi khi cuồng mê, mê tín dị đoan, chúng ta con mắt của pháp đã mù lòa vì sầu bi trong cuộc đời, vì ái nhiễm, vì tình yêu, vì những tình cảm, những cảm xúc, những cảm giác vụn vặt của kiếp nhân sinh làm mù lòa con mắt của pháp. Nên chúng ta khi đau khổ muốn thoát khổ, khi buồn muốn hết buồn, khi bất an muốn hết bất an, chạy ngược chạy xuôi mắt pháp đã mù, chẳng thể thấy Phật. Nhưng cũng có tâm tầm pháp, nhưng mắt mù lần mò trong cuộc đời chạm vào thứ gì cũng cho là Phật. Để rồi người đời người ta cầu tài, cầu tiền, cầu danh, cầu lợi, thấy được người cuồng như ta đang cầu Phật, họ đã tạo ra biết bao nhiêu những vị Phật hoang tưởng, đưa ta chạm vào nhưng vì tâm cầu mắt mù kia chạm đâu cũng cho là Phật, ta đã bị lừa một cách ngoạn mục trong tăm tối từ vô lượng kiếp qua. Ai lừa ta? Ác nghiệp của chính ta đã lừa ta, đã làm ta mù và lừa ta mãi. Vì đâu ta mù? Vì ái nhiễm, vì tình cảm, vì ái dục, vì tham chấp, vì mong chờ.
Có người nói con người mà, đó là chuyện thường, đúng. Là chuyện thường với con người nhưng ta bị đọa đày mãi mãi. Nay học Phật phải phân biệt tình cảm của con người là tình cảm chấp thủ, cho ta, thuộc về ta, của ta. Tình cảm của Bồ Tát, của Phật là mênh mông vô tận, không có bờ bến, chẳng có chỗ dừng, không có tâm chấp nên mắt càng sáng. Mắt thương nhìn cuộc đời bởi tình cảm tình yêu của Phật, Từ bi của Phật là Từ bi của cái nhìn thấu nhân quả, nhân duyên, để dẫn dắt và gieo trồng mầm thiện, dìu qua bến mê tới được bờ giác. Khi người kia mù sờ được Phật thực sự, được dắt tới sờ được Phật, chạm vào Phật lúc ấy mới tỉnh, bởi vì bao nhiêu lần chạm vào những vị Phật mà ta cho là Phật kia đều không phải, nay chạm vào Phật thật sự mới thấy cảm giác vi diệu.
Trên con đường tu, sự mù lòa của ta đã làm cho ta lầm chấp, mê tín dị đoan, lần mò bao đời bao ngày tháng qua, cúng kính lung tung, quỳ lạy đủ thứ, dập đầu cho đổ máu rồi đâu đâu cũng kêu là Phật. Mà đâu có biết rằng ta đã mù, ta đã lòa, nhờ một vị thánh tăng dắt tới chạm vào Phật đó các bạn, mà bà ấy đã phân biệt được sự khác biệt giữa Phật và những niềm tin trong dân gian. Vì khi chạm vào Phật đôi mắt tâm của bà được sáng, nhìn rõ. Vị thánh tăng trong cuộc đời đã đến với các bạn rồi, để dắt các bạn tới với Phật và chạm vào Phật. Vị thánh tăng trong cuộc đời mà chúng ta đã tạo vô vàn nghiệp chướng đã tới, dắt ta chạm vào được Phật sao bạn không mừng. Tình cảm là chuyện tốt nhưng phải nhìn cho rõ đừng để hóa đá như hòn Vọng Phu, đừng để hóa đá như hòn Phụ Tử, đừng để mù lòa như người mẹ kia, rất may người ấy được thánh tăng dắt đến chạm vào Phật.
Các bạn, có cảm nhận rằng bạn đã được thánh tăng dắt đến gặp Phật chưa? Chắc chắn là đã có, Bảo Thành đã được, các bạn đã được, vậy vị thánh tăng đó là ai? Thưa các bạn vị thánh tăng đó chính là hơi thở chánh niệm của mật thiền, vị thánh tăng đó chính là hơi thở đã dắt chúng ta chạm vào mật ngôn của tâm Từ bi – Trí tuệ – Tỉnh giác – Thiện lành. Không còn là cảm giác nữa mà là cảm ứng được với Phật, cảm ứng tiếp hiện, gắn kết gần gũi với Phật, vị thánh tăng đó chính là chánh niệm hơi thở và các mật ngôn vi diệu. Vị thánh tăng đó đã được Đức Phật giới thiệu từ ngàn xưa cho tới nay trong bát chánh đạo – chánh niệm hơi thở. Chúng ta thực hành mật thiền chánh pháp, quán chiếu các mật ngôn qua hơi thở chánh niệm là tiếp xúc với một vị thánh tăng vi diệu. Để từng ngày qua sự mù lòa trong cảm xúc, trong cảm giác, trong đau khổ, trong ái nhiễm, trong ái dục, trong lầm mê, trong chấp trược, trong đau khổ, tụ chung gọi là gánh nặng sầu bi đó.
Ta được vị thánh tăng hơi thở chánh niệm và các mật ngôn vi diệu kia, dẫn chúng ta cảm ứng được với Phật. Để khối sầu bi muôn đời ta gắn trên vai, ta đội trên đầu phá vỡ từ từ mà thân tâm nhẹ nhàng. Các bạn có nhận định được điều này hay không? Phải tư duy trong chánh kiến, phải cảm nhận trong sự trong sáng của hơi thở chánh niệm, đừng mù lòa nữa. Hòn Vọng Phu hóa đá trở thành những bài ca hoặc những câu ca dao ca ngợi:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh.
Nghe hay, mà cái này rất hay đối với người Việt, rất đẹp, rất hay.
Nhưng để thoát khỏi giải thoát của luân hồi, cái hay trong dân gian không thể là mục tiêu, là cứu cánh. Mà phải là cái hay của Phật dạy thoát khỏi những ái dục đó, thăng hoa thành tâm Từ bi – tâm Mu A Mu Sa, bằng tâm Trí tuệ Nammô TaMô TaMô ĐaRaHoang, để có tâm Tỉnh giác như Phật Ma Sa Ốp Uê, mà cuộc đời này ta mang các pháp thiện lành Sa Bi Mô U gắn kết với muôn loài muôn vật. Thì gánh nặng sầu bi trong cuộc đời của bạn có thể là một khối tình vỡ giữa vợ chồng, giữa con cái, giữa cha mẹ ông bà, có thể là chuyện liên quan đến tài chánh, đến công ăn việc làm, đến danh văn lợi dưỡng, đến muôn điều nhu cầu trong cuộc sống, sẽ dần dần được chuyển hóa, bởi vì sao? Bởi vì bạn không bị những chuyện đó làm mù lòa con mắt lý trí, để bạn có đầy đủ ý chí vươn lên trên tất cả.
Các bạn, người học Phật như chúng ta phải chạm vào được Phật và vị thánh tăng phải được nhận diện. Thánh tăng trong cuộc đời của các bạn, thánh tăng trong cuộc đời của Bảo Thành chính là hơi thở chánh niệm. Vị thánh tăng vi diệu dắt ta tới nương vào mật ngôn tâm Từ bi – Trí tuệ – Tỉnh giác – Thiện lành quán, để cảm ứng được với 10 phương chư Phật, chư Bồ Tát thánh hiền. Để muôn gánh nặng sầu bi trong cuộc đời không còn đè chết chúng ta nữa và làm mù lòa con mắt tâm, rơi vào sự mê tín, sự mê muội lầm chấp nữa. Các bạn, không thể rời tay vị thánh tăng kia, không thể rời dù là một sát na, khỏi chánh niệm hơi thở đâu. Hiểu được giá trị này, chúng ta đã luôn luôn cảm ứng được với Phật, bạn đã chạm được với Phật. Các bạn, mà các bạn trở về với hơi thở của chánh niệm.
Thưa Phật! Chúng con đã bị mù vì biết bao nhiêu những khối sầu bi ở trong đời đè nặng. Chúng con nguyện xin nắm chặt bàn tay của vị thánh tăng chánh niệm hơi thở, dẫn dắt chúng con bước qua các mật ngôn Từ bi – Trí tuệ – Tỉnh giác – Thiện lành để cảm ứng được với Phật không bị hóa đá.
Hít vào bằng mũi đưa xuống dưới bụng phình ra, thở rất từ từ hóp bụng vào, quán chiếu thân tâm, tổng trì mật ngôn, tiếp hiện năng lượng, cảm ứng với Phật.
Mu A Mu Sa – NamMô TaMô TaMô ĐaRaHoang – Ma Sa Ốp Uê – Sa Bi Mô U (7 Biến)